KIẾN NGHỊ CỦA LUẬT SƯ, MỘT BIỆN PHÁP HỮU HIỆU ĐỂ BẢO VỆ THÂN CHỦ

VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH 1% , CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN 79 NGÀN ĐỒNG TẠI HÒA BÌNH

1.         Tóm tắt quá trình giải quyết vụ án:

     Tháng 1/2017, Văn phòng Luật sư Thái Minh nhận được yêu cầu trợ giúp pháp lý của cậu sinh viên năm thứ 5 Trường Đại học Mỏ Địa Chất Hà Nội về việc mẹ cậu ấy là một phụ nữ dân tộc tày, 50 tuổi đang bị tạm giam điều tra về tội “Cố ý gây thương tích 1%” và tội “Cưỡng đoạt tài sản 79 ngàn đồng”.

    Qua thông tin tiếp nhận từ khách hàng và qua các buổi làm việc căng thẳng tại Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án, các luật sư của Văn phòng Luật sư Thái Minh nhận định: (Dù bị hại trong vụ án cố ý gây thương tích chỉ bị thương tật là 1% và số tiền chiếm đoạt trong vụ án cưỡng đoạt tài sản chỉ là 79.000đ nhưng quá trình giải quyết vụ án của các CQTHTT có nhiều dấu hiệu “phức tạp” theo hướng  bất lợi cho bị cáo ).

      Để bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho thân chủ là một hành trình vô cùng gian nan và đầy khó khăn khi các Luật sư luôn phải đấu tranh trước những bất đồng quan điểm pháp lý với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án.

   Bằng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp và kinh nghiệm bản thân. Ngoài việc trực tiếp bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa, các Luật sư của văn phòng Thái Minh đã tiến hành hàng loạt các biện pháp nghiệp vụ khác như: Tư vấn pháp luật cho thân chủ; Thu thập các chứng cứ có lợi để chứng minh; Gửi kiến nghị, yêu cầu tới các cơ quan tiến hành tố tụng để đảm bảo tính khách quan, công bằng cho bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án …..Với thái độ trách nhiệm cao, thông qua những việc làm cụ thể nêu trên Luật sư của Văn phòng Luật sư Thái Minh đã đem lại niềm tin, sự hài lòng từ phía bị cáo và thân nhân của bị cáo. Dưới đây là nội dung cụ thể một Văn bản Kiến nghị của Luật sư.

2.Văn bản Kiến nghị của Luật sư gửi Chánh án Tòa án nhân dân tối cao

     ĐOÀN LUẬT SƯ TP. HÀ NỘI        CỘNG HOÀ XÁ HÔI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

VĂN PHÒNG LUẬT SƯTHÁI MINH                           Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

     Số:  45 / 2017 / KN-VPLS                                                ——–***——–                                               

                                                        Hà Nội, ngày 15 tháng 8 năm 2017

 

KIẾN NGHỊ CỦA LUẬT SƯ

  Kính gửi:  Chánh án, Tòa án nhân dân tối cao

 Tôi là: Luật sư Bùi Thế Vinh

Trưởng Văn phòng luật sư Thái Minh thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội

Địa chỉ: Số 20, phố Viên, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội

 Website: www.luatthaiminh.vn;  Điện thoại: 0981263166;   0916543689

Trước hết, tôi xin được gửi đến Chánh án lời chúc sức khỏe và lời chào kính trọng. Với tư cách là người bào chữa cho bị cáo Lường Thị San trong vụ án cố ý gây thương tích, và vụ án cưỡng đoạt tài sản do Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình mở phiên tòa hình sự sơ thẩm xét xử ngày 24/7/2017. Qua nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án và trực tiếp tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Để góp phần giải quyết vụ án một cách khách quan, công bằng, đúng pháp luật và tránh oan sai. Nay, bằng văn bản này, tôi xin trân trọng gửi đến Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nội dung kiến nghị như sau:

Tôi cho rằng Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2017 ngày 27/7/2017 của Tòa án nhân dân TP Hòa Bình đã nhận định và kết luận về vụ án là chưa khách quan, chưa công bằng và có dấu hiệu sai lầm nghiêm trọng trong việc viện dẫn và áp dụng điều luật. Tôi xin được phân tích những vấn đề của vụ án như sau:

1. Đối với hành vi cố ý gây thương tích.

 1.1 Phân tích về việc xác định chứng cứ và đánh giá chứng cứ trong vụ án.

Trong suốt quá trình điều tra và ngay tại phiên tòa, bị cáo luôn khảng định rằng: “ Vì có mâu thuẫn từ trước, bị cáo và bà Tươm có đôi co nhưng bị cáo không dùng dao gây ra thương tích cho bà Tươm, việc bị hại (bà Tươm) và 3 người làm chứng là (bà Hồi, cô Linh, cô Tuyết ) cố tình vào hùa với nhau để hãm hại bị cáo,  là vì trước đó cả 4 người này đã có mâu thuẫn về tranh chấp đất đai với bị cáo”.

Bởi vậy, việc Hội đồng xét xử sử dụng lời khai của những người đang có mâu thuẫn với bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội bị cáo là không khách quan. Hơn nữa, lời khai của bà Tươm, bà Hồi, cô Linh, cô Tuyết cho rằng: “Bị cáo đã dùng CON DAO để gây ra thương tích trên người bà Tươm”. Nhưng kết quả giám định pháp y đã xác định “Thương tích trên người bà Tươm là do VẬT TÀY tác động”. Rõ ràng, trong vụ án này, lời khai của bà Tươm, bà Hồi, cô Linh, cô Tuyết đã mâu thuẫn với lời khai của bị cáo và mâu thuẫn với kết quả giám định pháp y. Tuy vậy, Hội đồng xét xử sơ thẩm đã không coi trọng tính khách quan của kết quả giám định pháp y; Hội đồng xét xử sơ thẩm đã không lý giải mâu thuẫn một cách khách quan, khoa học mà cố tình lập luận theo hướng “gò ép, áp đặt” để buộc tội bị cáo như đúng lời khai của bà Tươm, bà Hồi, cô Linh, cô Tuyết; Đấy là việc làm không khách quan trong việc phân tích, đánh giá chứng cứ; Lập luận như vậy để buộc tội bị cáo là không công bằng.

1.2 Phân tích về tình tiết vụ án và hung khí là chứng cứ của vụ án.

Theo hồ sơ của vụ án, Cơ quan điều tra thu một con dao tại đống sắt trong sân nhà bị cáo ( loại dao dùng để băm chặt) và họ coi đó là hung khí mà bị cáo đã gây án; Tuy nhiên, Kết luận giám định pháp y đã xác định:“Chấn thương vùng mặt, vai trái, tay trái của bà Tươm do vật tày tác động; Tỷ lệ tổn thương trên cơ thể là 01 %”. Hội đồng xét xử đã lập luận  rằng: “Bị cáo dùng bản dao và sống dao đập vào người bị hại”. Rõ ràng nhận định như vậy là không khách quan, không thỏa mãn thuộc tính liên quan của chứng cứ (con dao) với thương tích trên người nạn nhân.

Bởi lẽ, không ai nhìn thấy con dao có ở đống sắt từ khi nào, hơn nữa trong lúc bị cáo và bà Tươm xô xát, nếu bị cáo dùng con dao là hung khí để tấn công bà Tươm thì bị cáo không thể và cũng không có thời gian để lựa chọn chỉ dùng bản dao và sống dao đánh (4 cái) vào người bà Tươm, điều đó thật vô lý. Thậm chí giả sử, trong lúc hai bên xô xát và “bị cáo là người có thiện tâm” chỉ chọn lựa sống dao và bản dao để đánh vào người bà Tươm, thì sống dao và bản dao là vật bằng sắt, có góc cạnh, do vậy thương tích mà sống dao và bản dao gây ra cũng không thể là loại thương tích (do vật tày tác động) như bản Kết luận giám định pháp y đã xác định

Từ những phân tích nêu trên, tôi cho rằng: “ Con dao mà cảnh sát 113 đã thu giữ tại đống sắt trước sân nhà bị cáo không thể là hung khí của vụ án”.

1.3 Phân tích về quy trình và thời hạn trong tố tụng.

Tại Khoản 2/ Điều 103/ Bộ luật tố tụng hình sự, quy định về thời hạn kiểm tra, xác minh.“Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được tin báo về tội phạm, Cơ quan điều tra phải quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Trường hợp, sự việc có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn có thể dài hơn nhưng không quá 02 tháng”  Như vậy, trong thời hạn mà điều luật đã quy định, Cơ quan điều tra phải ra quyết định khởi tố, hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.

 Nhưng trong  vụ việc này, ngày 29/8/2016 Cơ quan công an đã lập Biên bản, đã lấy lời khai của các bên có liên quan. Đến ngày 23/11/2016, Cơ quan Điều tra công an tp Hòa Bình ban hành Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 136. Như vậy là, (thời hạn kiểm tra, xác minh đã kéo dài 02 tháng 24 ngày). Rõ ràng, Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 136, ngày 23/11/2016 của Cơ quan Điều tra công an tp Hòa Bình, đã vi phạm về thời hạn quy định, tại Khoản 2/ Điều 103/ Bộ luật tố tụng hình sự.

Việc khởi tố bị can, phải xuất phát từ Quyết định khởi tố vụ án, nhưng Quyết định khởi tố vụ án, đã vi phạm nghiêm trọng về thời hạn trong tố tụng. Bởi vậy, Quyết định khởi tố bị can cũng không được coi là đúng pháp luật.

 Về việc này, Tại trang 6 Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2017 đã lập luận bằng cách đưa ra các lý do như sau: “ Do vụ án có nhiều tình tiết phức tạp; Phải đợi kết luận giám định; Hai ngành, Công an và Viện Kiểm sát đã họp thống nhất gia hạn 2 tháng; Việc khởi tố vẫn trong thời hiệu khởi tố vụ án theo quy định tại Điều 23 Bộ luật hình sự”. Rõ ràng, toàn bộ lý do và điều luật mà Hội đồng xét xử đã viện dẫn không thể bao biện cho hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan tố tụng.

Thứ nhất:  Một vụ xô xát của 2 người phụ nữ có hậu quả tổn thương là 1% sức khỏe, nguyên nhân xuất phát từ những mâu thuẫn trong sinh hoạt xóm giềng. Bởi vậy, Hội đồng xét xử cũng không nên nghiêm trọng hóa thành“vụ án có nhiều tình tiết phức tạp”.

Thứ hai: Vụ việc xảy ra ngày 29/8/2016 nhưng đến ngày 17/10/2016 (sau gần 2 tháng) Cơ quan điều tra mới ra Quyết định trưng cầu giám định, thì Hội đồng xét xử cũng không nên lập luận rằng “Phải đợi kết luận giám định”. Thử hỏi, khoảng thời gian gần 2 tháng, tính từ khi  tiếp nhận vụ việc đến lúc trưng cầu giám định; Tại sao Cơ quan điều tra không trưng cầu giám định? Đấy là những vấn đề cần phải làm sáng tỏ, cần được nhìn đúng bản chất vụ việc để trả lời câu hỏi: “Vụ việc này có đáng để xử lý bằng hình sự hay không?”

Thứ ba: Tại Khoản 2/ Điều 103/ Bộ luật tố tụng hình sự, đã quy định rất rõ về thời hạn kiểm tra, xác minh. Theo đó, trong thời hạn mà điều luật đã quy định, Cơ quan điều tra phải ra quyết định khởi tố, hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Không có điều luật nào cho phép cơ quan tố tụng được gia hạn, kể cả Thông tư liên tịch số 06/2013 ngày 02/8/2013 cũng không cho phép được gia hạn.

Từ nội dung đã phân tích và các điều luật đã viện dẫn, tôi cho rằng: Việc ngày 26/10/2016, Cơ quan Công an và Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình đã họp thống nhất để gia hạn thời gian kiểm tra, xác minh kéo dài thêm2 tháng. Đấy là hành vi vi phạm tố tụng một cách nghiêm trọng.

Thứ tư:  Việc Hội đồng xét xử viện dẫn và áp dụng Điều 23 Bộ luật hình sự để tính thời hiệu khởi tố vụ án là viện dẫn và áp dụng sai điều luật.

Bởi lẽ, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và thời hạn khởi tố vụ án hình sự là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Điều 23 Bộ luật hình sự quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, chứ đâu phải quy định về thời hiệu khởi tố vụ án hình sự như bản án đã nêu.

Kính thưa, Chánh án, Tòa án nhân dân Tối cao.

 Từ những nội dung bất cập trong bản án sơ thẩm như tôi đã trình bày ở trên, dẫn đến việc Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Lường Thị San phạm tội cố ý gây thương tích là không khách quan, không công bằng. Tôi cho rằng, với những tình tiết có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa là Cơ quan tiến hành tố tụng chưa chứng minh được tính khách quan và tính liên quan của chứng cứ (con dao),  theo đó chưa chứng minh được hung khí nguy hiểm trong vụ án. Bởi vậy, không đủ căn cứ để buộc tội bị cáo. Trong trường hợp này cần phải yêu cầu điều tra lại hoặc tuyên bị cáo không phạm tội cố ý gây thương tích.

2. Đối với hành vi cưỡng đoạt.

Ngay trong quá trình điều tra, bị cáo vẫn thừa nhận là có thu được 40 ngàn đồng của mấy người ngồi bán hàng trước cửa nhà của bị cáo (Việc bị cáo thu tiền của những người đến ngồi bán hàng trước cửa nhà cũng giống như bao gia đình khác lâu nay vẫn làm tại khu vực chợ tạm trên đường Phùng Hưng / TP Hòa Bình). Hành vi  của bị cáo tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng xét trong bối cảnh cụ thể, với những lý do cụ thể, có tính đến  giá trị chiếm đoạt, hậu quả thiệt hại đã xảy ra. Hơn nữa, bị cáo được áp dụng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì bị cáo không đáng phải nhận hình phạt nặng đến vậy.

Ngay tại phiên tòa, những người bị hại đã đứng ra đề nghị tòa giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bản án sơ thẩm cũng đã ghi nhận bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b và điểm g Khoản 1 / Điều 46 Bộ luật hình sự và một số tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Theo đó Hội đồng xét xử sơ thẩm hoàn toàn có thể áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự  để tuyên bị cáo mức án dưới khung hình phạt và cũng hoàn toàn có thể áp dụng Điều 60 Bộ luật hình sự  để cho bị cáo được hưởng án treo. Tuy luật sư có đề nghị những nội dung nêu trên; Nhưng  Hội đồng xét xử  sơ thẩm đã không áp dụng những điều khoản có lợi ấy cho bị cáo.

Kính thưa, Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao.

Tôi là luật sư tham đã gia tranh tụng nhiều vụ án ở cả 3 cấp tòa. Tôi rất đồng tình và luôn mong muốn rằng. “Phán quyết của Hội đồng xét xử phải căn cứ vào kết quả tranh tụng ngay tại phiên tòa”. Tôi cũng hiểu rằng: “Tranh tụng công khai, phán quyết khách quan và công bằng, đấy là con đường để giảm bớt oan sai; Đấy cũng chính là mục tiêu mà hệ thống xét xử của Việt Nam đang hướng tới”; Tôi cũng hiểu rằng: “Vụ án này là nhỏ bé so với hàng ngàn vụ án đang được xét xử; Nhưng cho dù là một vụ án nhỏ, thì ý nghĩa của nó đối với sinh mệnh của một con người trước vòng lao lý là không hề nhỏ. Ý nghĩa giáo dục sẽ càng lớn khi vụ án được xét xử một cách khách quan và công bằng”.

Bởi vậy, tôi trân trọng gửi đến Chánh án, nội dung kiến nghị này và không chỉ vì những bất ổn trong Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2017 ngày 27/7/2017 của Tòa án nhân dân TP Hòa Bình.  Mà thông qua bản kiến nghị này tôi muốn đóng góp ý kiến nhỏ bé của mình vào tiến trình nâng cao chất lượng xét xử tại các phiên tòa, góp phần làm tiết giảm đến mức thấp nhất, những oan sai có thể xảy ra.

Trên đây là nội dung kiến nghị tôi đã trình bày, kính mong Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bớt chút thời gian xem xét và có ý kiến chỉ đạo giải quyết.

 Tôi xin trân trọng cảm ơn !                                               

Nơi nhận:                                                                                         TM VPLS THÁI MINH

–            Như trên                                                                                                   Đã ký 

–            Lưu VP                                                                                          Trưởng văn phòng

                                                                                                               Luật sư Bùi Thế Vinh

 

 

Tôi xin gửi kèm theo bản kiến nghị này những tài liệu sau:

1.Cáo trạng số 53/KSĐT của VKSND thành phố Hòa Bình ;

2.Kết luận giám định pháp y về thương tích của bà Tươm;

3.Quan điểm của luật sư bào chữa tại phiên tòa sơ thẩm( đã gửi cho HĐXX);4.Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2017 của Tòa án nhân dân TP Hòa Bình;

5.Đơn kháng cáo của bị cáo.

http://m.baophapluat.vn/nhip-cau/hoa-binh-mot-ban-an-hinh-su-so-tham-con-nhieu-van-de-can-lam-ro-355122.html#ref-http://baophapluat.vn/?allowmobile=true

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *